Phát triển thư viện số thông minh trong kỷ nguyên cách mạng công nghiệp 4.0
Từ khoá Cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0 đã trở nên rất phổ biến hiện nay. Cuộc cách mạng này được nhìn nhận như là sự ra đời của một loạt công nghệ mới, nó kết hợp các công nghệ lại với nhau, làm mờ ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số và sinh học, đang thâm nhập sâu rộng vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, sự lan toả của nó diễn ra càng nhanh chóng. Hoạt động thư viện - thông tin cùng với những lĩnh vực liên quan mật thiết khác như nghiên cứu, đào tạo, truyền thông, xuất bản… cũng đã ảnh hưởng và chịu sự tác động bởi cuộc CMCN 4.0 một cách sâu sắc. Cùng với mọi ngành nghề trong xã hội, ngành thư viện - thông tin bước vào thời đại của cuộc CMCN 4.0 với đặc trưng là nền sản xuất thông minh được phát triển trên ba trụ cột chính là: Kỹ thuật số, Công nghệ sinh học và Vật lý. Xét từ khía cạnh sự tương tác, có thể nhận thấy một số đặc trưng mang tính bản chất, cốt lõi nhất của CMCN 4.0 là:
Hoạt động của các lĩnh vực kể trên được diễn ra thông qua một phức thể mới xuất hiện: các hệ thống tương tác cùng vận động giữa các thực thể và hình ảnh của chúng trong không gian số, mà ngày nay người ta gọi là Cyber - Physical Systems (CPS). Môi trường truyền thông tin đóng vai trò hệ tuần hoàn của các hoạt động trên là Mạng lưới vạn vật kết nối Internet (Internet of Things - IoT) [1]. Sự xuất hiện khối lượng cực lớn các dữ liệu - dữ liệu lớn (Big Data) bảo đảm để các hoạt động trên có thể thực hiện được.
Theo cách tiếp cận khác, Bortolini M. (2017) và các cộng sự đã xác định dữ liệu lớn, IoT, điện toán đám mây, CPS, học máy… cấu thành nền tảng công nghệ của nền công nghiệp 4.0 [9]. K. Santos và các cộng sự (2017) đã chỉ ra 2 trụ cột chính của nền công nghiệp 4.0 bao gồm mô hình hoạt động và nền tảng công nghệ [17]. Trong đó, có các bộ phận chưa xuất hiện trước đây như: Sản phẩm thông minh (Smart Products), Dịch vụ thông minh (Smart Services), được hiểu để mô tả ứng dụng, nền tảng và giải pháp cơ sở hạ tầng được cung cấp dưới dạng các dịch vụ qua mạng (công cộng hoặc tư nhân) trên cơ sở quan hệ thị trường; Cộng đồng (Community) được lý giải bao gồm các dịch vụ cấp cao nhằm tạo môi trường và kích thích sự cộng tác của thành viên để nâng cao tính năng động, sự tương tác lẫn nhau, hoàn thiện sự kết nối với bên ngoài. Ở đây, khía cạnh nhân văn của môi trường công nghiệp kết nối mạng được tạo điều kiện và nâng cao thông qua cộng đồng [17]... Ngoài ra, các tác giả M. Bortolini (2017), Hồ Tú Bảo (2017), Noh Younghee (2015)… cũng đưa ra những hình ảnh theo các cách tiếp cận khác nhau đối với các thực thể đang được tạo nên bởi cuộc CMCN 4.0 [9,1,20].
Sự phát triển nguồn tin trong kỷ nguyên cách mạng công nghiệp 4.0
Về bản chất, hoạt động của thư viện là tác động tới thông tin - phản ánh kết quả hoạt động của con người trong xã hội. Nội dung hoạt động đặc thù này của thư viện chính là việc tổ chức, cung cấp thông tin đáp ứng mọi nhu cầu của người dùng tin (NDT) một cách có hiệu quả và thuận lợi. Như vậy, nguồn tin với tư cách là đối tượng tác động chính là nền tảng thiết yếu để triển khai hoạt động của thư viện [11].
Đề cập tới sự tương đồng và không sợ làm mất đi tính tổng quát của vấn đề được nêu, có thể thấy nguồn tin của thư viện chính là sản phẩm, kết quả của các hoạt động nghiên cứu, đào tạo. Đặc tính này là xuyên suốt đối với sự hình thành và phát triển của thư viện. Trong kỷ nguyên CMCN 4.0, nguồn tin dạng số, đặc biệt là nguồn tin trực tuyến trở thành đặc trưng cơ bản - yếu tố tạo nên sự đổi mới căn bản và toàn diện phương thức hoạt động của thư viện ngày nay.
Điểm khác biệt căn bản của nguồn tin hiện nay là chúng tạo thành một khối dữ liệu lớn, một không gian thông tin chung thống nhất, bao trùm mọi tài liệu khoa học và liên thông với nhau [2]. Trong khối dữ liệu lớn, không tồn tại bất kỳ tài liệu nào được hình thành mà hoàn toàn biệt lập với các tài liệu khác: giữa chúng đều có mối liên kết dữ liệu phản ánh các quan hệ trích dẫn qua lại với nhau. Với một tài liệu khoa học bất kỳ (luận án, báo cáo khoa học, sách, bài tạp chí… của ai, viết bằng bất kỳ ngôn ngữ nào, xuất bản ở đâu và vào bất cứ lúc nào) trong khối dữ liệu lớn đó, có thể xây dựng được thuật toán, ngoài việc đưa ra câu trả lời cho các câu hỏi thông thường ở các thư viện, còn cho các câu hỏi như: Công trình khoa học đó đã trích dẫn đến những tài liệu nào? Những công trình khoa học nào có cùng chủ đề đã cùng trích dẫn trong số các tài liệu mà nó đã trích dẫn đến? Điều này là dễ hiểu bởi chỉ có như thế, IoT mà vật ở đây là các tài liệu khoa học, các chủ thể khoa học đóng vai trò là không gian thông tin thống nhất kể trên.
Khi phân tích về dữ liệu lớn, có thể đề cập tới cách thức liên kết các dữ liệu sao cho các cơ sở dữ liệu (CSDL) như Thomson Reuters, Scopus… có thể luôn cung cấp cho NDT chỉ số tác động (Impact Factor), chỉ số trích dẫn cũng như nhiều loại chỉ số khác (H-Index…) về các tạp chí khoa học, tài liệu khoa học cũng như các chủ thể khoa học khác (cá nhân, cộng đồng…). Vấn đề dữ liệu lớn trong lĩnh vực thư viện đã được các tác giả K.R. Ingale, A. Janikova, G. Chowdhury… đưa ra phân tích tại Hội nghị quốc tế về thư viện số 2016 và xem đó như là các đặc điểm mang tính thời đại của thư viện [12]. Có thể đưa ra một ví dụ khá tiêu biểu ở đây: Một tạp chí khoa học hội nhập với nguồn tin khoa học chung trên thế giới khi và chỉ khi nó đã được xác định chỉ số tác động và điều đó có nghĩa là dữ liệu của tạp chí đó đã gia nhập vào dữ liệu lớn của cộng đồng khoa học trên thế giới [4, 7]. Quan hệ phức tạp giữa các tài liệu đã làm cho chỉ từ một tài liệu cụ thể, có thể suy ra rất nhiều tài liệu khác từ những mối quan hệ này. Ví dụ: Trong CSDL Proquest Central, từ bài báo “Libraries as coworking spaces understanding user motivations and perceived barriers to social learning” của các tác giả M. Bilandzic and M. Foth có thể truy cập tới: 11 tài liệu trích dẫn tới bài báo đó; 41 tài liệu được bài báo đó trích dẫn; 12.398 tài liệu mà việc tham khảo của chúng liên quan đến các tài liệu trích dẫn tới và được luận án trích dẫn; khoảng 185.000 tài liệu có liên quan về nội dung đối với bài báo. Như vậy, từ một bài báo cụ thể này, trên cơ sở các phân tích trích dẫn, có thể truy cập tới trên 197.000 tài liệu (đều có trong CSDL Proquest Central) có liên quan ở những mức độ và theo các cách thức khác nhau.
Có thể khẳng định: Mô hình cấu trúc dữ liệu của nguồn tin lúc này cần phải có những khác biệt căn bản so với các kỷ nguyên trước đây thì mới có thể xác định được thuật toán trên. Tính chất phức tạp, đa dạng của quan hệ giữa các tài liệu được phản ánh qua mối quan hệ dữ liệu chằng chịt giữa chúng đã được nêu trong các nghiên cứu về thư viện thế hệ 4.0. Ở đây, dữ liệu của tài liệu chủ và các dữ liệu có liên quan cùng được thể hiện và chịu sự tác động của NDT cũng như chuyên gia tạo lập nên thông tin một cách có kiểm soát [20]. Ví dụ, khi NDT truy cập và trích dẫn đến tài liệu trong một nghiên cứu của mình thì dữ liệu về sự tác động đó trong tài liệu được trích dẫn lập tức được thay đổi (bổ sung) để chỉ số tác động của tài liệu chủ được cập nhật một cách tự động và trong chế độ thời gian thực (tức thời). Như vậy, cùng với sự tồn tại vốn có của các tiêu chuẩn như ISBD, Dublin Core, chắc chắn sẽ xuất hiện các phương pháp xử lý thông tin mới, các tiêu chuẩn siêu dữ liệu thế hệ mới dành cho hoạt động thư viện - thông tin, xuất bản trực tuyến… sao cho khi tài liệu khoa học được xuất bản, chúng luôn sẵn sàng hội nhập vào khối dữ liệu lớn, vào không gian thông tin chung. Chính các tiêu chuẩn này mang đến cho tài liệu trong dữ liệu lớn một cấu trúc dữ liệu mới.
Hệ quả của một khối lượng dữ liệu khổng lồ cùng cấu trúc mới đã dần làm cho các thư viện thế hệ 4.0 không cần tới các sản phẩm dạng tạp chí tóm tắt (Abstract Journal, ra đời từ cuối thế kỷ XVIII), cũng như nhu cầu phải xác định danh mục tạp chí hạt nhân để bổ sung cho từng thư viện (xuất hiện khoảng những năm 1940); không cần tới các bảng chỉ số trích dẫn (Citation Index, ra đời từ những năm 1950). Đấy chính là sự tiến hoá của thư viện dưới tác động trực tiếp bởi sự tiến hoá của nguồn tin làm nền tảng để tạo lập các loại hình sản phẩm và dịch vụ cung cấp cho NDT.
2. Thư viện số trong kỷ nguyên cách mạng công nghiệp 4.0
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nguồn tin dạng số, ngay từ khi xuất hiện, thư viện số (TVS) nhanh chóng trở thành tâm điểm thu hút sự quan tâm của những người hoạt động trong lĩnh vực thư viện - thông tin.
Theo L. Wulandari và các cộng sự (2016), sự phát triển TVS để giúp: Cung cấp thông tin cho NDT mọi nơi, mọi lúc; Cải thiện tìm kiếm, truy cập, truyền tải thông tin; Cải thiện các phương tiện để chia sẻ thông tin; Truy cập thông tin một cách kịp thời (tức thời); Cải thiện việc sử dụng thông tin; Cải thiện sự liên kết, hợp tác giữa thư viện với NDT; Giảm thiểu sự phân cách, khoảng cách về trình độ giữa các cộng đồng, góp phần tạo sự bình đẳng trên mọi phạm vi [19].
Tác giả Nguyễn Hoàng Sơn (2011) trong nghiên cứu của mình đã xác định “TVS là không gian lý tưởng để giao lưu tri thức số, kiến tạo một nền văn hoá đọc chưa từng có trong lịch sử thế giới và khơi nguồn sáng tạo cho những phát minh quyết định trong tiến trình phát triển trí tuệ nhân loại”. Cũng vì thế, TVS là “một trong những nền tảng quyết định cho chính sách phát triển nền kinh tế tri thức, vị thế cạnh tranh của quốc gia trên trường quốc tế và là yếu tố cấu thành Hệ thống tri thức quốc gia” [6]. Theo tác giả Cao Minh Kiểm (2009), phần cốt lõi của TVS là “bộ sưu tập trực tuyến các tài nguyên số, có tổ chức, có chất lượng đảm bảo, được người làm thư viện chọn lọc, sưu tập và quản trị theo các nguyên tắc quốc tế về phát triển bộ sưu tập, được bảo quản lâu dài để NDT truy cập, tìm lại và khai thác tài nguyên được thuận tiện và bền vững trên những dịch vụ cần thiết” [3].
Chúng ta đã biết đến một số nhận diện khác biệt nhau về chức năng của TVS. Trong đó, nổi bật là cách tiếp cận xác định chức năng của TVS thông qua mô hình 7 chữ A, do Eric Brangier, Jérôme Dinet, Laurent Eilrich... đề xuất [10]; mô hình 5 chữ S, do R. Shen, E.A. Fox... đề xuất [18].
- Mô hình 7 chữ A: Mô hình này phản ánh các chức năng chính của TVS được tạo nên bởi chữ cái đầu của các từ trong tiếng Anh: Archive; Accredit; Actualise; Analyse; Affirm; Associate và Animate.
(1) Chức năng Archive (resources): Chức năng lưu trữ các nguồn thông tin, cung cấp hiệu quả các dữ liệu. Điều này hoàn toàn phù hợp với bản chất cốt lõi nhất của mọi thư viện - nơi lưu giữ, hay đầy đủ hơn là nơi cung cấp quyền truy cập/ khai thác/ sử dụng bộ (các bộ) sưu tập với tính cách là nguồn lực thông tin đặc trưng của thư viện đó.
Chức năng này được xác định nhằm sắp xếp các nguồn tin được tổ chức lại một cách hợp lý để chúng dễ dàng truy cập được và trở nên hữu dụng đối với NDT, phù hợp với quyền lợi và nghĩa vụ xác định của họ.
(2) Chức năng Accredit (the information): Chức năng cung cấp chứng thực đối với thông tin nhằm nâng cao được tính/ mức độ xác thực (về giá trị nội dung thông tin) của TVS.
Chức năng chứng thực nhằm chính thức công nhận TVS là một tổ chức với khả năng cung cấp các thông tin chuyên ngành đáng tin cậy, phải chứa các thông tin tin cậy, giúp tra cứu tới nguồn gốc tri thức. Điều này cũng được xác định thông qua chính sách phát triển nguồn lực thông tin của thư viện.
(3) Chức năng Actualise (knowledge): Chức năng hiện thực hoá kiến thức nhằm cập nhật kiến thức.
Chức năng hiện thực hoá kiến thức nhằm mục đích cập nhật thông tin và cung cấp các kiến thức mới nhất để đáp ứng một loại nhu cầu thường trực đối với NDT. Điều này cũng rất quen thuộc bởi các dịch vụ phổ biến thông tin hiện tại, các sản phẩm thông tin như thư mục thông báo sách mới, thư mục hiện tại... mà hầu như mọi thư viện, nhất là các thư viện khoa học, thư viện đại học đều triển khai.
(4) Chức năng Analyse (the data): Chức năng phân tích dữ liệu giúp NDT hiểu rõ và đầy đủ các kho lưu trữ thông tin.
Chức năng phân tích dữ liệu giúp NDT phân tích một cách toàn diện nội dung dữ liệu của kho lưu trữ. TVS hỗ trợ cho sự hiểu biết về các sự kiện, so sánh các nguồn lực, tạo cho việc tham chiếu, so sánh, tra cứu thông tin. Tuy chưa phải tất cả các thư viện đã thực hiện, song có thể thấy sự liên kết, chia sẻ nguồn lực thông tin giữa các thư viện đã được rất nhiều thư viện lớn trên thế giới thực hiện một cách có hiệu quả. Đây chính là tiền đề giúp NDT có thể truy cập, khai thác một nguồn thông tin khổng lồ, bao quát mọi thành tựu tri thức của nhân loại.
(5) Chức năng Affirm (an identity): Chức năng xác định một thực thể (tài liệu, nguồn thông tin...) để phản ánh giá trị cốt lõi của mỗi thư viện.
Giá trị cốt lõi ở đây là mọi yếu tố cấu thành mang tới giá trị và hiệu quả của thư viện đối với cộng đồng, bao gồm trong đó nguồn lực thông tin (trữ lượng và đặc tính của các bộ sưu tập), hệ thống sản phẩm và dịch vụ, cơ sở vật chất, kỹ thuật, đội ngũ chuyên gia và các đối tác, các thành tựu nổi bật, truyền thống lịch sử... Chức năng xác định giúp chỉ ra hay khẳng định giá trị, bản sắc của thư viện.
Chức năng Associate: Chức năng liên kết nhằm giúp NDT thực hiện việc liên kết, kết nối đến các mạng xã hội mang tính chuyên ngành phù hợp với sự quan tâm của họ. Chức năng liên kết được thể hiện thông qua sự tham gia của các diễn đàn khác nhau (cá nhân hoặc tập thể) trong việc phát triển kiến thức chung. Đối với các thư viện khoa học, thư viện đại học (TVĐH), đây là chức năng ngày càng trở nên quan trọng bởi nó giúp cho quá trình giao lưu khoa học được diễn ra một cách có hiệu quả.
(6) Chức năng Animate: Chức năng kích hoạt sự quan tâm của NDT, nhằm thu hút sự quan tâm của họ thông qua việc phát triển các sự kiện số (digital event).
Chức năng kích hoạt nhằm kích thích NDT trong việc tạo lập và trao đổi kiến thức thông qua sử dụng các nguồn lực thông tin và dịch vụ do TVS cung cấp.
- Mô hình 5 chữ S: Mô hình 5 chữ S là chữ cái viết tắt của các từ: Societies, Scenarios, Spaces, Structures, Streams. R. Shen, E.A. Fox (2013) và một số tác giả đã xem TVS là một hệ thống thông tin phức hợp thực hiện các chức năng được lý giải theo ý nghĩa của 5 chữ S như sau [18]:
Societies: TVS có chức năng đáp ứng nhu cầu của NDT nói chung, tức là đáp ứng nhu cầu của các thành viên trong xã hội. Đây cũng chính là chức năng xã hội của TVS.
Scenarios: TVS có chức năng cung cấp các dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của NDT, bao gồm các hoạt động cụ thể, được thiết kế theo một trình tự xác định nhằm đạt mục tiêu cuối cùng là đáp ứng yêu cầu tin đã được xác lập. Trước đây, một số nghiên cứu đã xem chiến lược tìm tin được thể hiện dưới hình thức một kịch bản thiết kế mà theo đó, việc tìm tin diễn ra. Đó cũng có thể xem là một trong các nguyên nhân sâu xa mà các tác giả xem TVS khi cung cấp các dịch vụ thông tin tức là thực hiện chức năng Scenarios.
Spaces: Trình bày, cung cấp thông tin theo các cách thức phù hợp với nhu cầu của NDT; mô tả thông tin theo các không gian chức năng của thư viện.
Structures: Tổ chức, bao gói thông tin theo cách thức phù hợp với nhu cầu NDT. Bao gồm cả việc sử dụng siêu dữ liệu để tạo nên các cấu trúc phù hợp cho thông tin nhằm hướng đến việc đáp ứng nhu cầu tìm kiếm, khai thác thông tin qua việc kết nối các dữ liệu.
Streams: Hình thành các luồng/ dòng thông tin để thực hiện việc liên kết, trao đổi, chia sẻ thông tin giữa các cá nhân, cộng đồng.
3. Phát triển thư viện số thông minh, nhiệm vụ trọng tâm của các thư viện đại học hiện nay
Ban Nghiên cứu và kế hoạch của Hiệp hội các trường Đại học và Thư viện nghiên cứu của Mỹ (Association of College and Research Libraries - ACRL) biên soạn Báo cáo tổng quan về các khuynh hướng đặc trưng trong hoạt động của TVĐH năm 2018 [15]. Báo cáo phác hoạ 7 khuynh hướng nổi bật, bao gồm: Triển khai hoạt động trên nền tảng sự liên kết giữa nhà cung cấp thông tin và nhà xuất bản; Tin tức giả mạo và vấn đề kiến thức thông tin; Quan điểm quản lý dự án trong thư viện; Khả năng chi trả cho tài liệu và nguồn học liệu mở; Phân tích học tập, thu thập dữ liệu và các khía cạnh đạo đức trong việc khai thác thông tin; Bổ sung bộ dữ liệu khoa học, khai thác tài liệu và khoa học về dữ liệu; Quản lý bộ sưu tập (Phát triển mô hình bổ sung, Chính sách phát triển truy cập mở và các kế hoạch tài trợ, Bộ sưu tập truyền thống). Khuynh hướng rõ rệt nhất liên quan tới quy mô phát triển cũng như mối quan hệ chằng chịt của các dữ liệu trong khối dữ liệu lớn được thể hiện trong báo cáo. Đây cũng là khuynh hướng được phản ánh khá rõ nét trong các báo cáo tổng quan mà ACRL đã công bố ngay từ các năm 2012, 2014, 2016. Báo cáo nhấn mạnh tới xu hướng tăng cường sự phối hợp và liên kết chặt chẽ giữa hoạt động mang tính truyền thống của thư viện (cung cấp thông tin cho NDT) với hoạt động xuất bản trong việc phát triển và quản trị nguồn thông tin khoa học tại các tổ chức nghiên cứu, đào tạo. Tiếp đó báo cáo đề cập tới khuynh hướng thư viện sử dụng hệ thống thiết bị có chức năng xử lý, lưu giữ, kết nối, truyền dữ liệu để phát triển hoạt động, cung cấp dịch vụ thông tin, trong đó phải kể tới các thiết bị đặc trưng nhất hiện nay dành cho NDT như các thiết bị di động và mạng kết nối wifi nói chung, các vấn đề liên quan tới việc phát triển nguồn học liệu mở tại các thư viện phục vụ nghiên cứu, đào tạo.
Các khuynh hướng thể hiện sự kết nối, phối hợp chặt chẽ, linh hoạt giữa thư viện với các hoạt động nghiên cứu đào tạo cũng được phân tích đầy đủ để qua đó có thể thấy được tính chất của loại hình TVS thông minh - khuynh hướng thể hiện rõ tính mục tiêu trong hoạt động của thư viện thế hệ 4.0 đó là: hoạt động của TVĐH phải giúp NDT có thể học tập, nghiên cứu dựa trên năng lực của bản thân, đồng thời kết quả hoạt động của thư viện phải gắn chặt với sự thành công của người học. Bên cạnh đó, thư viện cần chú trọng tới việc đưa ra các trắc lượng để giúp NDT có cơ sở xây dựng các đánh giá mang tính định lượng đối với mọi thông tin khi cần. Ngoài ra, hoạt động của thư viện cần mang các giá trị nhân văn đến NDT, tạo nên sự giao thoa, hài hoà giữa các phương pháp nghiên cứu, học tập mang tính truyền thống của con người gắn chặt với môi trường và thiết bị công nghệ hiện đại nhất [8, 15, 16].
Trong phạm vi các thư viện phục vụ nghiên cứu, đào tạo, vấn đề về nguồn tin cần được đặc biệt quan tâm bởi lẽ vai trò của chúng trong việc tạo sự liên kết, hội nhập của nguồn tin khoa học nội sinh (được tạo nên từ các hoạt động nghiên cứu, đào tạo của chủ thể) với nguồn tin bên ngoài trên tất cả các phạm vi [2]. Chức năng này của thư viện trong kỷ nguyên CMCN 4.0 được hiểu chính là việc tạo ra một khối lượng dữ liệu cụ thể để gia nhập vào không gian khổng lồ của dữ liệu lớn chung của nhân loại. Rất tiếc cho tới lúc này, ở nước ta vấn đề này chưa được nhìn nhận và giải quyết theo như cách cần phải có.
Như đã biết, trong môi trường IoT, mọi thực thể trong đó có cả các tri thức đều được phản ánh trong một không gian số - vì thế mới hình thành nên CPS - đòi hỏi các thư viện không thể đứng ngoài nhiệm vụ quản lý tri thức, bởi lúc này, quản lý tri thức tức là quản lý động thái của nguồn dữ liệu phản ánh tri thức. Các tác giả M. Koloniari, K. Fassoulis (2017) khi đề cập tới chức năng quản lý tri thức của TVĐH giai đoạn hiện nay đã giới thiệu một số dịch vụ mới liên quan tới hệ thống dữ liệu về nguồn nhân lực của trường đại học, các dịch vụ và phương tiện duy trì việc trao đổi thông tin trên mọi phạm vi [13].
Điểm then chốt của TVS thông minh là khả năng đáp ứng linh hoạt nhu cầu NDT (cá nhân, cộng đồng) trên nền tảng nguồn tin và các dịch vụ thông tin trực tuyến. Ở đây, TVS được phát triển theo hướng hỗ trợ tích cực cho quá trình phát triển hoạt động nghiên cứu, đào tạo trên môi trường số. TVS thông minh lúc này chính là một bộ sưu tập trực tuyến được kết nối với các nguồn tin khác nhau trong một hệ thống liên thông, hầu như không bị giới hạn (không gian thông tin chung) và các nhà quản lý cung cấp các dịch vụ cho NDT theo hướng chú trọng tới các dịch vụ cá thể hoá, nhằm tạo ra các sản phẩm dành riêng cho mỗi người. Mặt khác, ngoài việc phát triển các dịch vụ gắn liền với nền tảng là nguồn tin trực tuyến, các dịch vụ hướng tới hỗ trợ NDT tiến hành việc trao đổi, chia sẻ thông tin phục vụ nghiên cứu, đào tạo; các dịch vụ trực tiếp hỗ trợ quá trình giao lưu khoa học đang trở thành xu hướng nổi bật của TVS thông minh [20].
Các dịch vụ của TVS thông minh bao gồm [4]:
- Trích xuất dữ liệu từ các tài liệu số: Tạo giá trị cho siêu dữ liệu, nhập giá trị và kiểm tra tính toàn vẹn của dữ liệu;
- Tạo biểu ghi siêu dữ liệu phù hợp;
- Lập chỉ số biểu ghi siêu dữ liệu: duy trì chỉ số của siêu dữ liệu;
- Quản lý dữ liệu: nhận diện nội dung, lưu trữ, bảo quản và xoá dữ liệu;
- Xếp hạng dữ liệu: so sánh tài liệu dựa trên trắc lượng, ở đây có sử dụng các phương pháp nghiên cứu trong trắc lượng thư mục (Bibliometrics), trắc lượng web (Webometrics);
- Chọn lọc dữ liệu: Đối chiếu độ chính xác với nội dung tìm;
- Tìm tin: mã hoá và sử dụng tri thức ngành, xếp hạng và tìm kiếm;
- Nhận diện và sử dụng: Nhận diện bản sao, chia sẻ và tái sử dụng nội dung;
- Trao đổi, chia sẻ: Sao chụp, tải và truyền tải nội dung;
- Phân phối, phân đoạn: Chuyển dữ liệu từ nơi này sang nơi khác;
- Theo dõi bổ sung: cung cấp số liệu thống kê như phần mềm, mô hình và tính hữu dụng của nội dung;
- Hỗ trợ, kích thích: Cung cấp các báo cáo đến từng chủ thể đóng góp nội dung số, các phần mềm...
Các dịch vụ cho phép khả năng cá thể hoá, chọn lọc thông tin phù hợp với nhu cầu của mỗi cá nhân NDT. Có thể nói, hệ thống dịch vụ đa dạng, đủ phủ kín mọi loại nhu cầu của NDT, mà việc khai thác chúng không bị phụ thuộc vào các yếu tố không gian và thời gian đã trở thành hồn cốt của TVS thông minh trong kỷ nguyên CMCN 4.0.
Kết luận
Thư viện thông minh được phát triển trên nền tảng công nghệ số hiện đại như: trí tuệ nhân tạo, IoT… cung cấp cho NDT các sản phẩm và dịch vụ thư viện - thông tin (ở cả không gian vật lý và không gian số) nhanh chóng, tiện lợi, thân thiện. Được hệ thống công nghệ trí tuệ nhân tạo hỗ trợ tối đa, NDT tương tác với thư viện thông minh như giao tiếp với con người thực sự.
Trên thực tế, do mới được hình thành (khoảng từ năm 2015) nên chưa tồn tại một định nghĩa nghiêm ngặt giúp nhận diện rõ chân dung, hình hài của thư viện thế hệ 4.0. Tuy vậy, để gợi mở về bản chất, nội dung của thư viện thông minh trong kỷ nguyên CMCN 4.0, một số nhà nghiên cứu cho rằng gắn liền với thư viện lúc này đó là các từ khoá: TVS thông minh, nguồn tin mở, dữ liệu lớn, các dịch vụ đám mây, hiển thị tức thì, cập nhật tức thì, công nghệ nhận thức cảm ngữ cảnh, thư viện - không gian kích thích sáng tạo, người làm thư viện thế hệ 4.0 [20].
Tiếp cận từ kết quả hoạt động của thư viện thông minh mang lại cho NDT, chúng tôi cho rằng TVS thông minh trong kỷ nguyên CMCN 4.0 sẽ tham gia/ tích hợp vào mọi hoạt động của cộng đồng NDT, nhằm đáp ứng được các loại nhu cầu tin phong phú và đa dạng của họ. Với việc ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông một cách mạnh mẽ, các TVS thông minh trong kỷ nguyên CMCN 4.0 tạo nên thế giới phẳng - một thế giới giúp NDT bình đẳng trước các cơ hội, điều kiện tiếp nhận, kết nối lẫn nhau trong sử dụng thông tin tri thức phục vụ cho các hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học và phát triển trí tuệ nhân loại. Nhìn thấy trước những thuận lợi, khó khăn, thời cơ và thách thức, các TVĐH Việt Nam cần nắm bắt cơ hội, chủ động đón nhận và giải quyết các tác động của cuộc CMCN 4.0 trong hoạt động thư viện - thông tin, để tự tin đi tới tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Tú Bảo. Hiểu về cách mạng công nghiệp lần thứ 4.https://vnexpress.net tin-tuc/khoa- hoc/hieu-ve-cach-mang-cong-nghiep-lan-thu-4- 3574624.html. Truy cập ngày 4/8/2018.
2. Nguyễn Hữu Hùng. Hình thành và phát triển không gian thông tin khoa học và công nghệ ở Việt Nam // Thông tin và Tư liệu. - 2014. - Số 1. - Tr. 4 - 13.
3. Cao Minh Kiểm. Phát triển thư viện số - Những vấn đề cần xem xét // Tạp chí Thông tin và Tư liệu. - 2014. - Số 2. - Tr. 3 - 9.
4. Cao Minh Kiểm, Trần Mạnh Tuấn, Nguyễn Hữu Viêm. Những thông tin cơ bản về trắc lượng thư mục // Tạp chí Thông tin và Tư liệu. - 2009. - Số 2. - Tr. 2 - 20.
5. Nguyễn Hoàng Sơn. Thư viện số: Hai thập kỷ phát triển trên thế giới, bài học và định hướng phát triển cho Việt Nam // Tạp chí Thông tin và Tư liệu. - 2011. - Số 2. - Tr. 2 - 20.
6. Thư viện trong kỷ nguyên cách mạng công nghiệp 4.0.http://vinhuni.edu.vn/van-ban/seo/thu- vien-trong-ky-nguyen-cach-mang-cong-nghiep-40- 85664. Truy cập ngày 05/9/2018.
7. Trần Mạnh Tuấn. Trắc lượng thư mục: Các chỉ số phổ biến - Việc ứng dụng và vấn đề đào tạo ngành thông tin - thư viện // Thông tin và Tư liệu. - 2015. - Số 1. - Tr. 13 - 22.
8. Baryshev R.A. The smart library project: Development of information and library services for educational and scientific activity. https:// www.emeraldinsight.com/doi/abs/10.1108/EL-01- 2017-0017?af=R. Truy cập ngày 05/9/2018.
9. Bortolini M., etc. Assembly system design in the Industry 4.0 era: A general framework // IFAC PapersOnLine. - 2017. - No. 50(1). - P. 5700 - 5705.
10.Brangier E., Dinet J., Eilrich L. The 7 Basic Functions of a Digital Library - Analysis of Focus Groups about the Usefulness of a Thematic Digital Library on the History of European Integration. - Berlin: Springer-Verlag Berlin Heidelberg, 2009.
11. Breeding M. Introduction and Concepts: Chapter 1 Library Services Platforms: A Maturing Genre of Products // Library Technology Reports. - 2015. - No. 3. - P. 1 - 19.
12. International Conference on Digital Libraries 2016: Smart Future. Knowledge Trends that will Change the World // India Conference Papers. - 2016. - No.1. - P. 13 - 16.
13. Koloniari M., Fassoulis K. Knowledge Management Perceptions in Academic Libraries // The Journal of Academic Librarianship. - 2017. - No. 43. - P. 135 - 142.
14. Leidig J.P., Fox E.A. Intelligent digital libraries and tailored services // Journal of Intelligent Information System. - 2014. - No. 43. - P. 463 - 480.
15. Research Planning and Review Committee. 2018 top trends in academic libraries: A review of the trends and issues affecting academic libraries in higher education. https://crln.acrl.org/index.php/crl- news/article/view/17001/18750. Truy cập ngày 10/8/2018.
16. Research Planning and Review Committee. 2016 Top trends in academic libraries: A review of the trends and issues affecting academic libraries in higher education.https://scholarworks.iupui. edu/handle/1805/11853. Truy cập ngày 10/8/2018.
17. Santos K., etc. Opportunities Assessment of Product Development Process in Industry 4.0: 27th International Conference on Flexible Automation and Intelligent Manufacturing, FAIM2017. - Modena, Italy. - 2017. - No.11. - P. 1358 - 1365.
18. Shen, R., Goncalves, M.A., Fox, E.A. (Eds.) Key Issues Regarding Digital Libraries: Evaluation and Integration. - Carolina: Morgan and Claypool Publishers, 2013.
19. Wulandari L., etc. User Requirements Analysis For Digital Library Application Using Quality Function Deployment, 2016. http://iopscience.iop. o r g / a r t i c l e / 1 0 . 1 0 8 8 / 1 7 4 2 -6596/818/1/012004/meta. Truy cập ngày 2/8/2018.
20. Younghee N., etc. Imagining Library 4.0: Creating a Model for Future Libraries // The Journal of Academic Librarianship. - 2015. - No. 41. - P. 786 - 797.
___________
TS. Vũ Duy Hiệp
Trường Đại học Vinh
Nguồn: Tạp chí Thư viện Việt Nam. - 2019. - Số 3. - Tr. 3-10.
Thứ Tư, 09:57 25/11/2020
Copyright © 2018 Hanoi University of Industry.